Tên thật của bác Hồ là gì? Có bao nhiêu tên và bí danh của Bác Hồ

Bác Hồ đã có nhiều danh tính, bí danh và bút danh trong suốt cuộc đời của mình. Tên thật của Bác Hồ trong lúc sinh thời đó là gì? Và những cái tên mà Bác được mọi người yêu quý đặt cho Bác? Để tìm hiểu đáp án, vui lòng đọc bài viết của chúng tôi.

Tên thật của Bác Hồ là gì

Bác Hồ sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 tại làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An đó là quê ngoại của Bác. Tên khai sinh của Bác được cha mẹ đặt cho là Nguyễn Sinh Cung.

ten-that-cua-bac-ho-1

Nguyễn Sinh Sắc (1862–1929), một nhà Nho, từng thuộc Phó Bảng, là cha của Nguyễn Sinh Cung. Hoàng Thị Loan là mẹ của Bác (1868-1901). Anh chị em của Nguyễn Sinh Cung gồm có chị gái là Nguyễn Thị Thanh (sinh năm 1884), anh trai là Nguyễn Sinh Khiêm (tự Tất Đạt, còn gọi là Cả Khiêm) và em trai là Nguyễn Sinh Nhuận  đã qua đời từ sớm (1900 – 1901) .Xin là tên lọt lòng của người em trai duy nhất của Bác.

Những cái tên của Bác là gì

Bác Hồ đã sử dụng rất nhiều tên ngoài tên thật của Bác Hồ, bác còn sử dụng bí danh và bút danh trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Mỗi cái tên, bí danh, bút danh của Bác đều mang một ý nghĩa riêng gắn với một thời điểm lịch sử khác nhau. Hãy cùng xem tên, bí danh và bút danh của Bác ở bên dưới đây nhé!

  • Tại làng Hoàng Trù, xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nơi ông sinh ra và hiện cư trú tại xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, Bác có tên là Nguyễn. Sinh Cung.
  • Nguyễn Sinh Côn: Hồ Chí Minh cũng đã ghi tên Bác là Nguyễn Sinh Côn trong một tác phẩm viết năm 1954 của Bác.
  • Nguyễn Tất Thành: Cụ Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của cụ Nguyễn Sinh Cung, chuyển về làng Kim Liên vào tháng 9 năm 1901, nhân đó làm lễ “chào làng” cho hai con trai với tên mới. Nguyễn Tất Đạt (Sinh Khiêm) và Nguyễn Tất Thành (Sinh Cung).

ten-that-cua-bac-ho-2

  • Nguyễn Bé Côn: Theo tài liệu ngày 6 tháng 2 năm 1920 mà Tổng đốc Vinh công bố về cụ Nguyễn Sinh Sắc và hai con trai của cụ thì Nguyễn Bé Côn là con thứ của cụ Nguyễn Sinh Sắc. Những động thái của Nguyễn Ái Quốc đã bị Pháp theo dõi trong hồ sơ số 1116, 1931: có tên Nguyễn Sinh Côn, Nguyễn Bé Côn, Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Tất Thành hay Nguyễn Lý Thụy …
  • Văn Ba (1911): Nguyễn Tất Thành rời Việt Nam vào ngày 5 tháng 6 năm 1911 để làm việc trên một con tàu của Pháp. Bác tên là Văn Ba trong biên chế tàu.
  • Tất Thành: Nguyễn Tất Thành từ New York viết thư cho khâm sứ ở Trung Kỳ ngày 15 tháng 12 năm 1912, xin địa chỉ của cha ông là Nguyễn Sinh Huy. Trong thư Bác ký tên là Paul Tất Thành.

ten-that-cua-bac-ho-3

  • Năm 1914, Nguyễn Tất Thành ký một bức thư và gửi từ Anh cho Phan Chu Trinh. Hiện tại, bốn bức thư có chữ ký của Tất Thành đã được mọi người thu thập. Một bức thư ký là Cuồng Điệt Tất Thành còn lại được ký là C.Đ Tất Thành.
  • Paul Thanh (1915): Ngày 16 tháng 4 năm 1915, Nguyễn Tất Thành viết thư cho toàn quyền Đông Dương qua Đại sứ quán Anh tại Sài Gòn xin địa chỉ của cha mình. Paul Thanh là tên mà Bác đã ký.
  • Nguyễn Ái Quốc: Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh sống ở Pháp đã đặt tên cho Nguyễn Ái Quốc. Người cuối cùng tham gia tổ chức là Nguyễn Tất Thành.
  • Albert de Pouvourville (1920): Trong các tờ rơi về các vấn đề liên quan đến Đông Dương, Báo Điện Tín Thuộc Địa có phần trích đăng trên báo  theo Albert de Pouvourville (1920). Albert de Pouvourville là tên của người đăng.
  • Culixe (1922): Ngày 18 tháng 3 năm 1922, Nguyễn Ái Quốc đăng một bài trên L’Humanité với bút danh Culixe.
  • Henri Trần (1922): Thẻ đảng viên Đảng Cộng sản Pháp của Nguyễn Ái Quốc ghi tên Henri Trần. 13861 là số thẻ.
  • Nguyễn Ái Quốc bí mật rời Paris vào ngày 13 tháng 6 năm 1923 để đến Liên Xô, theo Chen Vang (1923). Nguyễn Ái Quốc đến Đức vào ngày 16 tháng 6 năm 1923. Tại đây, cơ quan đặc mệnh toàn quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết Liên Bang tại Berlin đã cấp cho ông một giấy phép lưu thông mang số hiệu 1829. Nguyễn Ái Quốc được gọi là Chen Vang trong tờ giấy này.
  • Lin (1924): Trong khoảng thời gian từ 1923 đến 1924 và 1934 đến 1939, Nguyễn Ái Quốc sống ở Liên Xô với tên Lin. Lần đầu tiên tên của Lin được nhắc đến là trong một email gửi vào ngày 14 tháng 4 năm 1924, cho Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng Sản. Lin được nhận vào học tại Trường Quốc tế Lenin Liên Xô năm học 1934 –1935 vào tháng 10 năm 1934. Số hiệu thứ 375 là Lin. Lin đã đi dự Đại hội lần thứ  VII của Quốc Tế Cộng Sản vào tháng 8 năm 1935.
  • Ái Quốc (1924): Ái Quốc là tên xuất hiện trên giấy đăng ký dự Đại hội lần thứ V của Quốc Tế Cộng Sản vào tháng 6 năm đó. Nguyễn Ái Quốc đã ký một tấm bưu thiếp và gửi cho đồng chí Francois Billous vào tháng 8 năm 1927. Sau đó, cái tên Ái Quốc xuất hiện trong nhiều bức thư khác nhau.

ten-that-cua-bac-ho-4

  • Un Annamite (1924): Một mẩu tin trên Le Paria được ký dưới bí danh Annamite.
  • Ông Lu (1924): Nguyễn Ái Quốc đã thông báo với một thành viên của Quốc Tế Cộng Sản trong một bức thư rằng ông Lu đã đến Quảng Châu, Trung Quốc, vào ngày 12 tháng 11 năm 1924. Thông tin liên lạc được ghi ở cuối bức thư: Ông Lu, hãng thông tấn Roxta, Quảng Châu, Trung Quốc. Nguyễn Ái Quốc sau đó đã đưa địa chỉ của ông Lu vào làm thông tin liên lạc trong nhiều bức thư tiếp theo.
  • Lý Thụy: Nguyễn Ái Quốc lấy bí danh là Lý Thụy vào năm 1924 khi đang hoạt động ở Trung Quốc. Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu ngày 11 tháng 11 năm 1924, mang theo giấy tờ tùy thân mang tên Lý Thụy. Nguyễn Ái Quốc kết một bức thư gửi Quốc tế Cộng sản ngày 18 tháng 12 năm 1924, bằng câu: “Trong lúc này tôi là một người Trung Quốc, chứ không phải là một người An Nam, và tên tôi là Lý Thụy chứ không phải là Nguyễn Ái Quốc.”

ten-that-cua-bac-ho-5

  • Lý An Nam: Nguyễn Ái Quốc làm việc ở Quảng Châu với tư cách là phiên dịch viên cho Đoàn cố vấn Liên Xô từ những năm 1924 đến 1925 với bí danh là Lý Thụy. Lúc này, Lý Thụy còn được gọi là Lý An Nam.
  • Nilopxki (N.A.Q.) (1924): Nguyễn Ái Quốc chuyển đến Quảng Châu, Trung Quốc, cuối năm 1924 làm việc tại văn phòng của Borodin. Hiện nay, chữ ký là Nilopxki đã tập hợp đủ 6 bức thư của Nguyễn Ái Quốc.
  • Vương (1925): Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Vương khi đang làm công tác huấn luyện chính trị ở Quảng Châu. Năm 1925, Nguyễn Lương Bằng còn được liên lạc với Bác  ở Trung Quốc với biệt hiệu là Vương.
  • L.T. (1925): Ngày 9-4-1925, Nguyễn Ái Quốc ký một bức thư gửi ông H (Thượng Huyền) với tên viết tắt là L.T. Sau đó, Nguyễn Ái Quốc còn đóng góp khoảng 15 bài cho báo Nhân dân trong các năm 1949, 1957, 1958, 1960 với bút danh L.T.
  • Bác (1941): Thuật ngữ “Bác” lần đầu tiên xuất hiện trong Hội nghị Trung ương 8 tại Pác Bó, Hà Quảng, Cao Bằng vào tháng 5 năm 1941.

ten-that-cua-bac-ho-6

  • Hồ Chí Minh: Nguyễn Ái Quốc đã sử dụng tên mới Hồ Chí Minh vào năm 1942 để chuyển sự chú ý khỏi các hoạt động của ông ở Trung Quốc. Hồ Chí Minh đến Trung Quốc ngày 13 tháng 8 năm 1942. Hồ Chí Minh bị bắt giam ngày 27 tháng 8 năm 1942, tại Túc Vinh. Khi kiểm tra giấy tờ, người ta phát hiện ra rằng Hồ Chí Minh đã có thẻ hội viên của “Hội Ký Giả Thanh Niên Trung Quốc”. Vì tập đoàn Tưởng Giới Thạch tin rằng Hồ Chí Minh là gián điệp của cộng sản, nên Hồ Chí Minh đã bị giam ở 13 huyện thị khác nhau trong tỉnh Quảng Tây. Hồ Chí Minh được thả vào ngày 10/9/1943.
  • Hồ Chủ tịch (1945): Sau khi công bố thành lập “Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, tên này đã được đặt.
  • Bác Hồ (1946): Nhiều thư ký mang tên “Bác Hồ” được gửi đến thanh niên, học sinh. “Bác Hồ” cũng được công chúng thường xuyên sử dụng trong các tiểu thuyết, tạp chí định kỳ và các cơ sở giáo dục.

Trên đây chúng tôi mới chỉ đề cập đến tên thật của Bác Hồ và những cái tên tiêu biểu mà Bác hay sử dụng trong quá trình hoạt động cách mạng.

Chúng tôi hy vọng rằng với những thông tin này, bạn đã biết tên thật của Bác Hồ là gì. Qua đó chúng tôi chắc chắn rằng bạn cũng đã có những thông tin về lịch sử bổ ích để trang bị cho công việc của bạn.

Tin tức liên quan

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *